Vận tải biển VN: "Bỏ sân nhà, đá sân khách"

Ngay trên sân nhà, đội tàu biển VN vẫn phải "nhường" tới 85% miếng bánh thị phần cho thương thuyền nước ngoài. Thực tế trên đã làm đau đầu không ít các nhà hoạch định chiến lược. Nhiều giải pháp đã được đưa ra, nhiều cơ chế chính sách đã được ban hành nhưng sau một thời gian dài, vẫn chưa có dấu hiệu khả quan. Tuy nhiên, có một nghịch lý là trong khi thị phần vận tải nội địa của chúng ta còn quá khiêm tốn thì phần lớn đội tàu của các doanh nghiệp vận tải biển VN lại đang khai thác rất thành công thị trường quốc tế.
Thống kê cho biết, hiện tại, đội tàu biển quốc gia có khoảng 970 tàu, tổng trọng tải đạt 2,85 triệu DWT, xếp thứ 60/152 quốc gia có tàu mang cờ quốc tịch và xếp thứ 5/11 nước ASEAN. Con số 970 tàu mang cờ VN này chưa phải là nhiều song cũng không hẳn là ít.

Đáng nói hơn, với số tàu này, khối lượng hàng hoá vận chuyển của đội tàu quốc gia đã tăng đáng kể so với năm 2000 (trên 50%). Tuy nhiên, như trên đã nói, mặc dù đã có sự tăng trưởng đáng kể song thị phần vận tải của chúng ta cũng mới chỉ chiếm xấp xỉ 15% tổng lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.

Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này là việc các cơ chế, chính sách (mà cụ thể ở đây là Quyết định 149/2003 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách phát triển đội tàu biển VN) chưa được thực hiện theo đúng tinh thần đề ra.

Khoảng thời gian 2 năm không phải là dài nhưng cũng không quá ngắn đối với việc thực hiện một Quyết định. Sau hơn 2 năm ban hành, Quyết định 149 của Thủ tướng Chính phủ vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn phải chăng là do thiếu sự phối kết hợp giữa các Bộ, ngành có liên quan?

Theo ông Nguyễn Hoàng Tiệm, Trưởng ban vận tải và dịch vụ hàng hải Cục Hàng hải VN, thị phần vận tải đội tàu của chúng ta thấp vẫn là do những nguyên nhân "xưa như trái đất":

Các chủ hàng nội của chúng ta đã quen với tập quán bán FOB tại VN dẫn tới người mua hàng ở nước ngoài được "mua tận gốc" và có quyền chỉ định tầu chuyên chở. Mặt khác, các chủ hàng ngoại lại chỉ thích bán CIF tức là "bán tận ngọn" và giành luôn quyền lựa chọn tàu chuyên chở.

Phía Hiệp hội chủ tàu VN cho rằng, ngoài những nguyên nhân trên, việc Nhà nước ta cho phép các công ty liên doanh sản xuất được đầu tư khép kín từ sản xuất kinh doanh cảng, vận tải biển, đại lý hàng hải đã làm cho cạnh tranh trong dịch vụ vận tải biển trở nên phức tạp hơn.

Ngoài ra, việc bảo hộ ngành đóng tàu trong nước thông qua việc áp dụng thuế nhập khẩu, thuế VAT cho nhập khẩu tàu biển từ nước ngoài cũng làm cho các doanh nghiệp vận tải biển khó khăn hơn trong việc đầu tư tàu, đặc biệt là những tàu lớn, có chất lượng tốt, tuổi tàu thấp

Do đó, các doanh nghiệp vận tải bị suy giảm đáng kể khả năng cạnh tranh và khả năng đáp ứng yêu cầu vận chuyển của chủ hàng.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến con số "khiêm tốn" về thị phần vận tải XNK của chúng ta. Song có một điều không ít người băn khoăn là liệu có phải thị phần của chúng ta thấp là do các doanh nghiệp vận tải biển của chúng ta, (không thể nói là tất cả song phần lớn) vẫn đang "bỏ ngỏ" thị trường trong nước mà "mải mê" "đánh đông, dẹp bắc".

Bằng chứng là phần lớn đội tàu của các doanh nghiệp vận tải biển (với những con tàu hiện đại nhất, tốt nhất) đang "tung hoành" trên các thị trường Nam Mỹ, châu Phi, Trung Đông và Đông Nam Á. Nếu thị trường trong nước được quan tâm hơn, hẳn là sự tình sẽ khác?

Theo quy hoạch phát triển vận tải biển VN đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì mục tiêu phát triển sẽ là nâng cao thị phần vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu đến năm 2010 là 25%, đến năm 2020 là 35% và vận tải biển nội địa là 100%.